Trong những ngày Hội Thánh chúng ta mới được thành lập, thì tôi ở Daegu. Một ngày nọ khi cầu nguyện, Đức Chúa Trời cho tôi một hy vọng lớn rằng: “Chúng ta sẽ truyền giảng qua phát thanh và sách”. Khi nhìn hoàn cảnh thì đó chỉ là một ‘giấc mơ’. Nhưng tôi thường làm chứng cho Hội Thánh rằng: “Chúng ta sẽ rao giảng trên đài phát thanh và in ấn sách”. Cho nên trong giờ cầu nguyện thì các anh em chị em cầu nguyện rằng: “Đức Chúa Trời ơi, xin hãy cho Mục sư Park giảng trên đài phát thanh”.
Vài năm sau, khi chúng tôi đang tổ chức nhóm bồi linh ở trung tâm huấn luyện CCC, thì một anh em đem một thẻ danh thiếp và nói rằng: “Mục sư ơi, người nầy muốn gặp mục sư”. Tôi xem cái thẻ thì trên đó có ghi rằng, ‘Mạng Lưới Cuối Hướng Đông, Sở Truyền Thanh, tên ông đó…’ Bởi vì tôi đang dẫn dắt một buổi nhóm, tôi không thể sắp xếp thời gian cho ông nên ông đã chờ đợi và sau đó đi về. Sau đó ông đến Hội Thánh chúng tôi hai lần để gặp tôi nhưng cũng không được. Sau đó chúng tôi nói chuyện trên điện thoại và cuối cùng chúng tôi đã gặp nhau. Ông hỏi tôi một cách thân mật: “Mục sư Park ơi, xin hãy giảng trên đài phát thanh của chúng tôi”.
“Phát thanh trên đài thì tốn rất nhiều tiền, nhưng đây là cách duy nhất để giảng Tin Lành cho những anh em ở nước Nga, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Chúng tôi nhận những lá thư phê bình rằng ‘nội dung của chương trình thuộc linh thì chán ngắt.’ Chúng tôi đang cầu nguyện để gặp được một mục sư có thể giảng Lời của Sự Sống. Mấy ngày trước ở turng tâm huấn luyện CCC, tôi đã nghe thông điệp của mục sư và đã rất cảm động lòng tôi, nên tôi muốn mời mục sư đến giảng trên đài phát thanh của chúng tôi”.
Nhưng tôi không thể nói ‘cũng được’ liền vì những người trong đó trông có vẻ không tiếp đón tôi một cách niềm nở. Sau đó, một mục sư từ nhà thờ khác đã học Kinh Thánh với tôi nhờ tôi giớ thiệu ông đến với Mạng Lưới Cuối Hướng Đông để ông được giảng ở đó. Nên tôi đã thăm sở truyền thanh của Mạng Lưới Cuối Hướng. Khi tôi vào sở truyền thanh một nhân viên trước đó đã gặp tôi nói rằng: “Ông chủ ơi, đây là ông đó đó”. Sau đó ông giám đốc mời tôi phát thanh bài giảng, nói rằng: “Chúng ta hãy ký hợp đồng”. Tôi không thể trốn khỏi nên đã ký hợp đồng và bắt đầu giảng.
Từ trước tới nay tôi chưa hề giảng với giấy bài giảng. Họ nói rằng tất cả các mục sư đều giảng với giấy bài giảng của mình. Nên tôi suy nghĩ nếu một ông mục sư trẻ giảng không sử dụng giấy bài giảng thì chắc rất là kiêu hãnh. Tôi cố gắng viết bài giảng trước nhưng không thể được. Tôi rất hâm mộ những người giảng với giấy đã chuẩn bị trước. Tôi thâu bài giảng trước và sau đó chép bài giảng xuống giấy, nhưng tôi cũng không làm vậy được. Sau đó tôi đến đài phát thanh hai tay không và nói rằng: “Tôi không thể làm được”.
“Ông nói cái gì? Chương trình đã sắp xếp xong rồi. Nếu mục sư không giảng, thì giờ đó sẽ bị để trống”.
“Nhưng tôi không thể giảng được”.
“Xin đừng có nói là không được. Sao không thử giảng chỉ một lần thôi?”
“Làm sao tôi giảng được trong khi tôi không thể viết bài giảng xuống giấy trước?”
“Không đúng đâu. Ông là một mục sư, không phải là một người thông báo tin tức. Một người thông báo tin thì phải có môi liến thoắng, nhưng mục sư không cần làm vậy. Mục sư chỉ giảng lẽ thật thôi”. “Tôi không có giấy bài giảng thì làm sao tôi giảng ở đây được?”
“Tại sao lại cần giấy chép sẳn làm gì? Mục sư chỉ giảng lời Chúa như đã giảng ở trung tâm huấn luyện CCC”.
Cuối cùng, đó là lần đầu tiên tôi đã đứng trước cái micrô. Được giảng trong 15 phút, nhưng trừ giới thiệu ra thì còn lại là 14 phút 30 giây. Tôi nói: “Xin chào mọi người”, và tôi bắt đầu giảng về Sáng thế ký đoạn 1.
Khi giảng trên đài thì các anh chị em nhận được nhiều sức mạnh và đài phát thanh nhận được thư gởi đến từ nhiều nơi. Đài phát thanh tính số người nghe qua số thư mà họ nhận được. Họ bắt đầu làm băng giảng và phân phát cho những người nghe yêu cầu. Một thầy gởi thư cho tôi và nói rằng: “Mục sư ơi, mỗi ngày khi nghe bài giảng của ông thì tôi nghĩ ra được nội dung thông điệp của tôi”. Khoảng ba tháng sau, đài phát thanh đề nghị tôi rằng: “Mục sư ơi, chúng ta hãy thay đổi giờ giảng của ông”. Họ phân cho tôi giờ cao điểm của đài phát thanh Mạng Lưới Cuối Hướng Đông và gọi đó là giờ ‘Tin Lành,’ và phát thanh mỗi tuần hai lần. Bài được phát thanh liên tục trên đài. Khi tôi càng nhận thư có phản ứng tốt về bài thông điệp của tôi thì tôi cũng càng bị vu khống. “Mục sư O.S. Park là một tà giáo. Tại sao lại cho ông ta giảng trên đài?”. Nhiều người gọi điện thoại và gởi thư phàn nàn. Mỗi lần có một phàn nàn thì nhân viên của Sở Truyền Thanh trả lời: “Mục sư O.S. Park mà tôi biết thì không phải là tà giáo. Từng bài giảng của ông không có gì sai so với Kinh Thánh. Chúng tôi phát thanh bài giảng của ông vì bài giảng rất là cảm động và có nhiều người nghe. Chúng tôi có thể tạo thời gian để anh chị gặp Mục sư O.S. Park trực tiếp nếu muốn”. Mỗi lần tôi đến phòng phát thanh thì những nhân viên ở đó tập trung lại để nghe bài giảng của tôi. Sau khi thâu bài giảng thì chúng tôi nói về đức tin. Các nhân viên chỉ cho tôi thư của những người phàn nàn và cũng đưa cho tôi thư của những thính giả khác.
Một ngày nọ giám đốc của sở truyền thanh đến và nói: “Mục sư ơi, có nhiều người bên ngoài phản đối quá. Xin hãy đợi đến năm tới để cho sự việc lặng xuống đã”.
“Cũng được”.
Trong lòng tôi biết rằng Đức Chúa Trời là Đấng đã mở cánh cửa của việc giảng trên đài phát thanh. Người đóng cánh cửa nầy lại cũng là Đức Chúa Trời. Nhưng một điều đã làm tôi buồn. Đó là tôi chưa có giảng Tin Lành cho những thính giả. Tôi sẽ giảng Tin Lành cho họ sau khi giảng từng bước một, đào xới đất trong lòng họ. Tôi cầu nguyện: “Đức Chúa Trời ơi, cảm ơn vì đã cho con giảng trên đài phát thanh. Xin hãy mở cửa cho con giảng Tin Lành cho họ“. Những nhân viên ở đó cảm thấy xin lỗi và rất buồn vì đã ngưng phát thanh bài giảng của tôi. Họ nói: “Chúng tôi không hiểu họ sẽ đứng trước mặt Đức Chúa Trời làm sao trong khi họ là người ngăn trở lời Chúa được rao giảng ra“.
Sau khi chấm dứt phát thanh bài giảng, hôm đó tôi đang dẫn dắt những nhóm của những chị em đã có gia đình trong Hội Thánh thì tôi nhận được một cú điện thoại từ đài phát thanh, nói rằng: “Mục sư ơi, xin hãy đến đài phát thanh liền”. Khi nhóm vừa xong tôi liền đến đài phát thanh. “Chúng ta hãy đến phòng ghi âm vào thâu bài giảng. Chúng ta không có thời gian“. Người ta nài ép tôi vậy, nên tôi suy nghĩ: “Đức Chúa Trời đang cho tôi cơ hội để giảng Tin Lành”. Thâu bốn cuộn băng 30 phút, đó là 2 tiếng đồng hồ giảng. Tôi có thể giảng Tin Lành một cách thoải mái. Sau khi thâu bài giảng xong, tôi bắt tay với những nhân viên ở đó và sau khi bài giảng thứ tư của tôi được phát thanh rồi thì tôi không còn giảng trên đài phát thanh nữa.
Đức Chúa Trời dẫn dắt tôi giảng Tin Lành trên đài rađiô không những trong nước thôi, mà còn ở Trung Quốc, Nga, và Bắc Triều Tiên. Trong công việc nầy thì không có cộng một cách thức nào của tôi. Đầu tiên thì Đức Chúa Trời cho tôi đức tin rằng tôi sẽ giảng Tin Lành qua phát thanh và sau đó Ngài tự mình làm thành việc đó. Đức Chúa Trời đã giữ mọi lời hứa Ngài đã lập với tôi. Tôi không có nghi ngờ gì về việc Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành công việc giảng Tin Lành đến cuối cùng đất nầy không màng đến khả năng của chúng ta.