Lòng tôi đã định khi xuất ngũ thì sẽ đi làm giáo sĩ. Nhưng Đức Chúa Trời đã thay đổi lòng tôi khi tôi còn ở trong quân đội. Ra nước ngoài làm giáo sĩ thì tốt, nhưng tôi nhận được ý của Đức Chúa Trời trong lòng tôi để ở lại Hàn Quốc để tôi có thể dẫn dắt và giảng Tin Lành cho những người mặc dầu đã đi nhà thờ mà vẫn còn đau khổ trong tội lỗi. Đi ra nước ngoài làm giáo sĩ thì không dễ dàng, nhưng nếu sau khi xuất ngũ mà ở lại Hàn Quốc để giảng Tin Lành thì cũng không dễ. Có nhiều vấn đề như tôi sẽ giảng ở đâu và đi hướng nào. Nhưng mùa hè năm đó, tôi đã được năm nhà thờ mời đến để giảng cho trại Kinh Thánh mùa hè cho trẻ em.
Nhà thờ đâu tiên tôi đến là trong làng Bok Sung, đó là miền quê ở Kyungbok trong tỉnh Goon We. Nhà thờ kế tiếp là ở tỉnh Yong In thuộc thành phố Sah Hoo. Nhóm truyền giảng lần thứ ba là ở Trường Trung Học Nam Sah ở thành phố Nam Sah và buổi nhóm rao giảng thứ tư là ở làng Wae Im, khoảng 2,5 dặm cách xa Trường Trung Học Nam Sah. Thời gian trôi qua nhiều rồi, nên tôi không còn nhớ địa điểm của những nơi trong cách thành phố đó. Trong lúc đó, chương trình của chúng tôi rất bận rộn đến nổi chúng tôi phải đi đến làng Wae Im trong đêm ngay buổi nhóm truyền giảng ở Trường Trung Học Nam Sah kết thúc. Qua ngày sau thì có nhóm truyền giảng liền. Khoảng nữa đêm, chúng tôi đi trên đường và qua mấy cánh đồng để đến làng Wae Im. Chúng tôi đi theo người dẫn đường nhưng anh ấy không còn nhớ rõ vì đã đi con đường đó 4 năm trước, cho nên chúng tôi cứ bị lạc hoài. Lúc đó là mùa mưa và mấy con đường nhỏ thì đều bị ngập, chúng tôi bị lạc mấy lần. Trong khi đó tôi tập hợp mọi người lại. Tổ chúng tôi tổng cộng sáu người; năm người giảng và một người dẫn đường. Tất cả chúng tôi cầm đồ trong tay mình, nhưng vì mưa nên chúng tôi không có một nơi để nghỉ; nên chúng tôi vừa cầm mấy bao đồ của chúng tôi vừa cầu nguyện với Chúa.
“Thưa Đức Chúa Trời là Cha, chúng con lạc đường rồi. Xin hãy giúp chúng con tìm được đường đi đúng”.
Nhưng vấn đề là chúng tôi không thể tìm được nhà của ông thầy đã mời chúng tôi, bởi vì lúc chúng tôi đến Wae Im sẽ là 2 giờ sáng. Chúng tôi không thể đánh thức người ta để hỏi được bởi vì lúc đó đã rất trễ rồi. Chúng tôi cầu nguyện về vấn đế đó. Khi đang cầu nguyện, tôi có lòng rằng Đức Chúa Trời đã yêu thương chúng tôi và dẫn dắt chúng tôi đến đó được. Chúng tôi cầu nguyện: “Chúa ơi, khi chúng con đến đó sẽ là 2 giờ sáng, ai sẽ ra đón chúng con? Bởi vì Ngài, Ngài làm việc nầy được!”. Điều nầy cứ nổi dậy trong lòng tôi. Nhưng bên cạnh đó tôi có một lòng: “Hê, làm sao được, ai sẽ đi ra lúc 2 hay 3 giờ sáng để đón tôi? Mặc dầu là Chúa, Ngài cũng không làm vậy. Nếu mầy cầu nguyện vậy thì người ta sẽ chê cười mầy”. Tôi bắt đầu cảm thấy nặng nề. Mặc dầu đang cầu nguyện mà lòng tôi cũng đang đấu tranh.
Tôi cầu nguyện: “Chúa ơi, xin hãy giúp cho những linh hồn đã nghe Tin Lành ở Nam Sah được lớn lên trong đức tin…” nhưng lòng tôi có một sự tranh đấu nho nhỏ. Đức Chúa Trời có thể sai người ra đón chúng tôi được, nhưng tôi thắc mắc rằng Ngài sẽ nghe tôi và nhậm lời cầu nguyện của tôi hay không. Nếu Chúa nghe lời cầu nguyện của tôi thì sẽ vui mừng và nói rằng: “Thấy chưa, Đức Chúa Trời đã nghe lời cầu nguyện tôi mà?” Nhưng nếu không xảy ra như vậy thì tôi sẽ lo lắng rằng mình sẽ bị các anh chị em khác chê cười vì họ sẽ coi tôi như một người nói khoác. Nhưng khi đang cầu nguyện, Đức Chúa Trời bắt đầu dẫn dắt lòng tôi và cuối cùng tôi đã kết thúc với lời cầu nguyện như vậy.
“Đức Chúa Trời ơi, xin hãy tha cho con vì không có đức tin. Khi đến Wae Im sẽ 2 giờ sáng, nhưng chúng con không biết nhà của ông thầy đã mời chúng con. Xin hãy sai một ai đó ra đón chúng con”. Qua Đức Chúa Trời thì việc nầy sẽ xảy ra được. Mặc dầu không một ai nói dám nói rằng chuyện đó sẽ không xảy ra, nhưng dường như trong lòng họ có nói rằng: “Chúng ta sẽ xem có một ai đi ra sớm như vậy không”. Tôi cảm giác được họ đang nói: “Chúng ta sẽ biết” khi cầu nguyện xong với lời “A men”. Tôi có tấm lòng muốn sống đời sống tôi tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Mặc dầu thấy tôi dường như hơi ngu nhưng tôi thích tấm lòng có đức tin nơi Đức Chúa Trời. Khi có tấm lòng nầy thì có được sự bình an.
Sau khi cầu nguyện, không có một ai nói gì về lời cầu nguyện của tôi. Đêm đó trời tối và nhiều mây vì đó là mùa mưa. Trong năm người chúng tôi thì ba người là nữ. Tôi không hiểu tại sao người nữ mang theo nhiều đồ vậy, họ không thể mang nổi nữa nên chúng tôi đã giúp họ. Vì cứ tìm con đường đúng nên chúng tôi đã vào làng lúc 3 giờ sáng.
Trước làng có một cây cổ thụ. Dưới cây cổ thụ có ba hay bốn thanh niên đang chơi. Họ ngóng cổ xem chúng tôi vì chúng tôi là khách lạ tay cầm nhiều túi đồ. Khi thấy người dẫn đường của chúng tôi thì họ hỏi: “Ô, xin chào! Sao lại đến trễ vậy?” Người dẫn đường trả lời: “Tôi đã dẫn những người diễn giả đến rồi; chúng tôi nghĩ rằng nếu đi giấc sáng thì tối sẽ đến, nhưng bây giờ thì đã rất trễ rồi”. Sau đó tôi biết rằng họ là những thanh niên trong nhà thờ đã mời chúng tôi. Sau đó họ dẫn chúng tôi đến nhà của ông thầy ở đó. Tôi rất cảm ơn vì Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của tôi. Khi đi theo những thanh niên đó, họ cầm mấy túi đồ của chúng tôi, tôi nói: “Chúa ơi, Ngài thật là Đức Chúa Trời của con. Con rất hổ thẹn vì đã không tin Ngài là hằng sống và đang làm việc”. Tôi rất cảm động. Sau đó tôi muốn tìm biết nên hỏi mấy thanh niên đó.
“Gần 3 giờ sáng rồi, các cậu làm gì ở dưới gốc cây đó vậy?”
Một người trả lời như vầy:
“Diễn giả ơi, một người trong nhà thờ chúng tôi rất già và có thể qua đời đêm qua, nên mọi người tập trung lại để gặp ông lần cuối cùng. Tưởng rằng ông sẽ chết khi gần tối, nhưng vẫn chưa nhắm mắt. Khi chúng tôi đang đợi thì đi ra ngoài để hít thở không khí trông lành, đó là lúc diễn giả đến và gặp chúng tôi”.
Mặc dầu tôi không nói cho họ, nhưng trong lòng tôi biết chắc rằng Đức Chúa Trời đã làm sự việc nầy. Nhưng khi suy nghĩ lại thì nếu trong một nhà thờ trong làng nhỏ nầy có một người chết thì sẽ làm quấy đến không khí của buổi nhóm truyền giảng.
Khi đang đi bộ mà tôi lại cầu nguyện một lần nữa.
“Thưa Đức Chúa Trời là Cha, xin đừng cho ông đó chết trong đợt nhóm truyền giảng nầy”.
Sáng ngày sau thì buổi nhóm truyền giảng bắt đầu, nhưng tôi không nghe tin ông đó qua đời cho đến lúc kết thúc buổi nhóm truyền giảng.
Khi A-đam bị Satan cám dỗ ăn trái cây biết điều thiện và điều ác, thì con mắt để nhìn thế giới thiêng liêng của chúng ta bị mù đi. Kinh Thánh nói rằng mắt họ đã được mở ra sau khi ăn trái cây đó, nhưng điều nầy nghĩa là mắt để nhìn thế giới thiêng liêng của chúng ta đã bị mờ đi. Bây giờ chúng ta chỉ có thể thấy thế giới vật chất nầy khi ánh sáng phản chiếu lên nó. Chúng ta không thể thấy được những vật không được ánh sáng phản chiếu. Satan đã huỷ diệt tấm lòng để tin vào thế giới mà mắt chúng ta không thể thấy được. Satan dẫn chúng ta tin vào một thế giới mà mắt mình có thể thấy được. Đó là vì sao cái đức tin trong con người dùng để tin Đức Chúa Trời thì đã biến mất đi mặc dầu có Đức Chúa Trời.
Họ chỉ nương cậy vào thế giới vật chất và cách thức con người. Họ không tìm kiếm thế giới thiêng liêng hay là nương cậy nơi Đức Chúa Trời là Đấng mình không thấy. Dâng đời sống lên cho Đức Chúa Trời dường như là không an toàn nhưng có một điều chắc chắn là nếu chúng ta tin và nương cậy nơi Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ không làm cho chúng ta thất vọng.